Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

ĐỐ KIỀU

VĂN HÓA DÂN GIAN: ĐỐ KIỀU
Hỏi:
     Truyện Kiều anh đã thuộc lòng,
Đố anh đọc được một dòng toàn nôm?

Đáp:
  Này chồng, này mẹ, này cha,
Này là em ruột, này là em dâu.

Hỏi:
    Truyện Kiều anh đã thuộc lòng, 
Đố anh đọc được một dòng toàn nho?

Đáp:
      Hồ công quyết kế thừa cơ,
Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công.

Hỏi:
    Truyện Kiều anh đã thuộc làu
Đố anh đọc được một câu hết Kiều?

Đáp:
      Trăm năm trong cõi người ta,
Mua vui cũng được một vài trống canh.

Hỏi:
      Truyện Kiều anh đã thuộc làu,
Đố anh giảng được một câu bốn mình?

Đáp:
        Oan kia theo mãi với tình,
Một mình mình biết, một mình mình hay.

Hỏi:
      Nỉ non căn vặn đến điều,
Tại sao lại bảo nàng Kiều sứt răng?

Đáp:
       Hở môi ra cũng thẹn thùng,
Sứt răng nàng sợ chúng trông bạn cười.

Hỏi:
      Song the đã khép cánh ngoài,
Nàng Kiều chung chạ có thai bao giờ?

Đáp:
         Lỡ từ lạc bước bước ra,
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao!


Hỏi:
     Ai cắt buông trứng đi rồi,
Mà còn đẻ giống sinh nòi hở em?

Đáp:
      Hoạn bà bà hoạn chứ ai,
Hoạn rồi mà vẫn sinh nòi Hoạn Thư.

Hỏi:
     Đồn rằng anh thuộc Truyện Kiều,
Ai cha, ai mẹ, ai dập dìu rể con?
       Ai mà mở phố lầu son?
Ai tu hành đắc đạo, ai bán buôn kiếm lời?
       Ai tự vẫn, ai cứu người?
Ai tu binh tập mã, ai thời viết kinh?
       Ai khôn, ai khéo điều binh?
Ai thời thi đậu triều đình quan cao?
         Ai thời tứ xứ anh hào?
Thì anh giảng hết luận vào em nghe!

Đáp:
     Ông bà Viên ngoại mẹ cha,
Vương Quan, Kim Trọng ấy là rể con.
     Tú Bà mở phố lầu son,
Giám Sinh họ Mã bán buôn kiếm lời.
    Giác Duyên tu đạo cứu người,
Thúy Kiều tự vẫn lại ngồi viết kinh.
     Hồ Công lập kế điều binh,
Vương Kim thi đậu triều đình quan cao.
     Bốn phương phất ngọn cờ đào
Ấy là Từ Hải anh hào Việt Đông.

Đố:
Truyện Kiều chàng thuộc đã làu
Đố chàng đọc được một câu “giữa” Kiều ?

Đáp:
   Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.

Hỏi:
       Đầu Kiều có một chữ “nho”,
Chàng mà giải được thiếp cho làm chồng.
      Giữa Kiều có một chữ “sông”,
Chàng mà giải được bế bồng thiếp đi.
      Cuối Kiều có một chữ “chi”,
Chàng mà giải được thiếp thì theo không.

Đáp:
       Một trai con thứ rốt lòng
Vương Quan là chữ nối dòng “nho” gia.
       “Sông” Tần một dải xanh xanh,
Loi thoi, bờ liễu mấy cành dương quan.
        Có tài mà cậy “chi” tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
       Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
       Đố rồi anh giải đã ra,
Về thưa cha mẹ gọi qua bằng chồng.
Hỏi:
      Đầu Kiều có một chữ nho,
Anh mà giải được em cho làm chồng,
    Giữa Kiều có một chữ thông,
Anh mà giảng được bế bồng em đi.
     Cuối Kiều có một chữ chi,
Anh mà đáp được em thì cho không. 

Đáp:
     Đầu Kiều nói đến nho phong,
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia.
     Giữa Kiều cũng đã nghĩ ra,
Như anh giảng được em là của anh.
     Đêm ngày một mực giấu quanh,
Rày lần mai lữa như hình chưa thông.
     Cuối Kiều cũng đã nghĩ xong,
Em đừng hối hận đổi lòng mà sai.
     Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
      Em ơi bước lại cho gần,
Một lời em hứa thánh thần chứng tri..... 


Hỏi:
        Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,
Nghe đâu Kiều có làm nghề tráng gương?

Đáp:
       Mười lăm năm bấy nhiêu lần,
Làm gương cho khách hồng trần thử soi.

Hỏi:

     Truyện Kiều anh đã thuộc lòng,
Chỗ nào tơ liễu mà không buông mành?

Đáp:
      Dưới cầu nước chảy trong veo,
Trên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

Hỏi:
    Truyện Kiều" anh đã thuộc làu
Đố anh kể được một câu năm người? 

Đáp:
  Này chồng, này mẹ, này cha
Này là em ruột, này là em dâu!

Hỏi:
     Truyện Kiều anh thuộc từ lâu,
Đố anh đọc được một câu mười người? 

Đáp:
         Hai bên mười vị tướng quân,
Đặt gươm, cởi giáp trước sân khấu đầu.

Hỏi:
    Truyện Kiều anh thuộc đã nhiều,
Đố anh đáp được câu Kiều ngàn năm? 

Đáp:
       Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.

Hỏi:
Truyện Kiều anh thuộc từng vần,
Đố anh đọc được ba lần trăm năm? 

Đáp:
      Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
      Rằng trăm năm cũng từ đây,
Của tin gọi một chút này làm ghi.
      Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không.

Hỏi:
 Truyện Kiều anh thường đọc luôn,
Đố anh đọc được bốn buồn, bốn khi? 

Đáp:
       Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
      Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
      Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt nước một màu xanh xanh.
      Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Hỏi:
Truyện Kiều anh thuộc đã nhiều,
Đố anh kể được câu Kiều mười cho? 

Đáp:
      Làm cho cho mệt cho mê,
Làm cho đau đớn ê chề cho coi!
     Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho cho hại, cho tàn, cho cân!

Hỏi:
     Thấy em hay đọc truyện Kiều,
Cho nên anh hỏi mấy điều xem sao.
     Kiều Vân em chị thế nào?
Tuổi ai hơn kém, má đào giỏi giang? 

Đáp:
       Hỏi chi ngoắt nghéo hỡi chàng?
Thúy Kiều là chị rõ ràng hẳn hoi.
         Hai người cùng vẻ sinh đôi,
Chàng xem trong truyện, chàng thời hiểu ra.
         Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
       Hai người một tuổi, một năm,
Lấy đâu hơn kém mà thăm hỏi dò?
       Kiều càng sắc sảo mặn mà,
Cho nên bạc mệnh ai mà chẳng hay!

Hỏi:
       Thúy Kiều sao tệ lắm thay,
Phụ lòng Kim Trọng, nước mây sao đành?
       Cầu Lâm chàng đoái chút tình,
Hàm oan những để một mình chịu riêng.
       Uổng công thuê Lẫm, Thúy Hiên,
Uổng công thề thốt chẳng nên việc gì! 

Đáp:
   Thực chàng vụng nghĩ chẳng suy!
Thau đồng lẫn lộn, bấc chì chưa tinh.
     Thúy Kiều là bậc bi kinh,
Chàng Kim cũng bậc trâm anh con nhà.
    Có đâu ép liễu nài hoa,
Có đâu tang bộc như là ai kia.
     Bởi chưng gia biến trăm bề,
Bán mình trăm lạng đền nghì muôn chung.
    Dở dang duyên phận vợ chồng,
Đó là tại bởi tơ hồng cợt trêu,
     Âu là cũng tại ông xanh,
Vẽ ra cho đủ mọi vành mà chơi.
     Sự tình em đã kể rồi,
Xin chàng suy nghĩ liệu lời khen chê!

Hỏi:
     Nàng Kiều lưu lạc gian truân
Với người tình, đã mấy lần chia tay? 

Đáp:
     Dùng dằng một bước một xa,
Chia tay Kim Trọng châu sa đẫm ngày.
     Chén đưa nhớ buổi hôm nay,
Chia tay chàng Thúc hẹn ngày năm sau.
      Đành rằng chờ đó ít lâu,
Chia tay Từ Hải, lòng đau nhớ nhà.
     Chiếc thân bèo nổi, sóng sa,
Ba lần ly biệt xót xa, tội tình!

Hỏi:
      Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
Phải dò cho tận ngọn nguồn lạch sông.
      Phải đâu mèo mả, gà đồng,
Thuyền quyên muốn hỏi anh hùng trước sau:
       Ba quân chỉ ngọn cờ đào,
Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri.
      Thế còn một đạo làm chi?
Trai anh hùng giải được, gái nữ nhi chịu tài.

Đáp:
        Vì ai chiếc lá lìa cành,
Khi săn như chỉ, khi mành như tơ.
       Trót công rày đợi mai chờ,
Phải người trăng gió vật vờ hay sao.
       Ba quân chỉ ngọn cờ đào,
Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri.
       Ắt còn một đạo binh uy,
Ở nhà giữ chốn biên thùy cho nghiêm.
      Anh hùng tỏ với thuyền quyên
Chữ tình càng mặn, chữ duyên càng nồng!

Hỏi:
       Tiện đây hỏi một hai điều
Thiếp tôi chưa rõ nàng Kiều ai sinh? 

Đáp:
        Hổ sinh ra phận thơ đào,
Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong.
      Khái (hổ) sinh Kiều, thật lạ lùng
Trả lời như rứa thỏa lòng em chưa? 

 Hỏi:
       Đến đây hỏi khách cựu giao
Chàng Kim đau bụng thế nào chàng ơi? 

Đáp:
        Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày!

Hỏi:
       Sinh ra thời buổi chiến chinh,
Thúy Kiều có lấy thương binh không chàng? 

Đáp:
         Một tay trời bể ngang tàng
Chồng Kiều - Từ Hải rõ ràng thương binh!

Hỏi:
      Thời Kiều đã có ngân hàng
Em đây chưa tỏ nhờ chàng chỉ cho? 

Đáp:
       Nhà băng đưa mối rước vào...
Tiền nong thanh toán việc nào chẳng xong!
                              (Nguồn: Sưu tầm dân gian)


2 nhận xét: