BẾN TAM SOA-LINH CẢM
Nếu coi Linh Cảm là ngôi
nhà thì bến Tam Soa là cửa và phòng khách xinh tươi của ngôi nhà lộng lẫy ấy. Tam Soa là nơi sông
Ngàn Phố, sông Ngàn Sâu hòa vào dòng La Giang - một con sông không nguồn, không
cửa chỉ dài độ 17 km, chảy qua huyện Đức Thọ, sau đó hợp lưu với dòng sông Lam
hùng vĩ.
Bến Tam Soa, nơi hội tụ của ba con sông tạo
nên một ngã ba, một mặt nước rộng chừng 50 ha. Chữ “soa” có thể do đọc chệch từ
chữ “sa” (cát). Cũng có người cho “Tam Soa” là nơi giao thoa của ba con sông. Ngày trước, đứng trên núi Tùng Lĩnh nhìn sang
bên kia sông là bãi cát dài vàng óng mịn màng. Nguồn nước Ngàn Phố, Ngàn Sâu
không quá mạnh, sông La lại êm ả, lững lờ trôi trên vùng đất bằng phẳng nên cát
vàng lưu luyến lắng lại, không nỡ rời xa mảnh đất hương thơm cỏ lạ. Những đêm
thượng tuần hay hạ huyền, ánh trăng man mác trôi trên bến Tam Soa thật huyền
diệu, mộng mơ. Lúc ấy, dạo bước trên con đường lát sỏi dưới bóng thông xanh
mướt, thả hồn chiêm ngưỡng vẻ đẹp huyền diệu, thanh bình của non xanh nước
biếc, ta cảm thấy thư thái, quên hết mọi ưu phiền giữa chốn bụi trần.
Ngày xưa, Tam Soa là bến đò. Đò dọc xuôi Vinh, ngược Ngàn phố
lên Phố Châu và ngược Ngàn Sâu lên Hương Khê. Đò ngang đưa khách từ Đức Thọ
ngược Hương Sơn, lên biên giới Việt Lào và từ Hương Sơn xuôi Đức Thọ, về thị xã
Hà Tĩnh, về Vinh. Khi đường số 8 được xây dựng, Tam Soa trở thành bến phà.
Nhiều bài thơ, bài ca đã nhắc đến Tam Soa-Linh Cảm: “Ai lên Hương Sơn vượt
phà Linh Cảm, đọi nước chè ấm giọng hò khoan” (Hà Tĩnh Trên Con Đường Chiến Thắng); “Tôi đi từ chợ
Thượng, tôi ngược bến Tam Soa/ Như con thuyền ngày xưa, tôi đi theo Ngàn Phố” (Ơi con sông Ngàn Phố).
Tam Soa là
chứng nhân lịch sử oanh liệt trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta. Từ Tam Soa ngược theo sông Ngàn Phố lên Nầm là trận đại thắng giặc Minh
vào năm 1425 của quân khởi nghĩa Lam Sơn do tướng Nguyễn Tuấn Thiện chỉ huy.
Cũng từ Tam Soa ngược Ngàn Sâu lên Ngàn Trươi là trận thắng lớn giặc Pháp của
nghĩa quân Phan Đình Phùng vào năm 1894. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Tam Soa-Linh Cảm là trọng điểm bắn phá của máy bay Mỹ. Nhưng “giặc phá
một ta làm mười”, ban ngày, ca nô, phà nấp bên sườn núi, dưới hàng thông, bờ
tre. Đêm đêm, lặng lẽ đưa từng đoàn xe, đoàn quân qua sông chi viện cho chiến
trường miền Nam và nước bạn Lào.
Những năm
sau 1975, Tam Soa-Linh Cảm là thị tứ đô hội sầm uất, trên bến dưới thuyền. Không chỉ là bến phà
qua sông mà còn là bến ca nô chở khách từ Linh Cảm đến Bến Thủy. Những năm đó,
thỉnh thưởng trưa thứ Bảy, chúng tôi từ Bến Thủy cưỡi ca nô về Linh Cảm. Sau đó
cuốc bộ chừng 12 km về nhà. Trưa Chủ nhật lại từ Linh Cảm xuôi ca nô về Bến Thủy
cho kịp buổi học sáng thứ Hai.
Linh Cảm thuộc Đức Thọ, được xây dựng trên ngọn núi thấp Tùng
Lĩnh. Trước đây có nhà máy sản xuất gạch ngói, đồ gốm, nước đá, kem và trạm bơm
điện, lấy nước từ sông La chảy vào kênh đào cung cấp nước cho hai huyện Đức Thọ,
Can Lộc. Dọc hai bên đường từ bến phà lên là hàng quán san sát bán kẹo lạc,
nước chè xanh và trái cây đủ loại. Trung tâm Linh Cảm là cửa hàng ăn uống phục
vụ khách qua đường. Cũng là nơi sản xuất nước đá, kem cây duy nhất của hai
huyện Hương Sơn, Đức Thọ. Hè năm lớp 10, khi xuống Đức Thọ thi đại học, tôi mới
biết Tam Soa-Linh Cảm và lần đầu tiên được thưởng thức cây kem mát rượi, thơm
ngon.
Từ ngày được thiết kế và làm
lại (1988), đường số 8 không chạy qua Tam Soa-Linh Cảm. Một cây cầu bê tông cốt
thép vĩnh cửu được xây trên sông sông Ngàn Sâu, cách bến Tam Soa khoảng 500
mét. Cũng từ đó, những đội cầu, phà, ca nô hết vai trò lịch sử. Tam Soa-Linh
Cảm mất hết vẻ sầm uất, lặng lẽ ngước nhìn người xe tập nập ngược xuôi ngày đêm
trên cây cầu vững chãi. Người qua lại không còn. Người mua bán, ăn uống cũng
hết. Do đó, hàng quán cũng tự động di dời đến nơi khác.
Linh Cảm là nơi xây dựng khu di tích và phần mộ cố Tổng Bí thư
Trần Phú. Từ năm 1984, UBND tỉnh Nghệ Tĩnh phê duyệt Dự án
nâng cấp khu di tích, tu bổ nhà thờ, xây dựng mới nhà trưng bày quy mô 300m2. Sau khi tìm được hài cốt đồng chí Trần Phú tại
công viên Lê Thị Riêng (Thành phố Hồ Chí Minh), ngày 12/01/1999, Đảng và Nhà nước
ta đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu và di dời hài cốt đồng chí về an táng tại
quê hương. Phần mộ đồng chí Trần Phú được đặt trên đồi Quần Hội, dưới bóng những
hàng thông, giữa một vùng non nước hữu tình, mặt hướng về bến Tam Soa. Phía trước
có khoảng sân khá rộng lát bằng đá nguyên khối là nơi để khách hành lễ. Phía
sau, trên nền bức bình phong màu nâu đỏ gắn lời căn dặn cuối cùng của đồng chí:
“HÃY GIỮ VỮNG CHÍ KHÍ CHIẾN ĐẤU”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét