Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2011

Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ

5

CHUYỆN KỲ NGỘ Ở TRẠI TÂY (*)
(Nguyên văn: Tây viên kỳ ngộ ký)

Hà Nhân, người học trò quê ở Thiên Trường(1), khoảng năm Thiệu Bình(2) ngụ
ở kinh sư để tòng học cụ ức Trai(3).
Mỗi buổi đi học, đường tất phải qua phường Khúc Giang. Trong phường có cái
trại, gọi là trại Tây, dinh cơ cũ của quan Thái sư triều Trần. Ngày ngày đi qua, Hà
Nhân thường thấy hai người con gái đứng ở bên trong bức tường đổ nhí nhoẻn cười
đùa, hoặc hái những quả ngon, bẻ bông hoa đẹp mà ném cho Hà Nhân nữa. Lâu lâu
như thế Hà Nhân không mần ngơ được, một hôm mới đứng lại trò chuyện lân la. Hai
người con gái tươi cười bảo:
- Chúng em một người họ Liễu, tên gọi Nhu Nương, một người họ Đào, tên gọi
Hồng Nương, nguyên là những tỳ thiếp của quan Thái sư. Từ ngày quan Thái sư qua
đời, chúng em vẫn phòng thu khóa kín. Nay gặp tiết xuân tươi đẹp, chúng em muốn
làm những bông hoa hướng dương, để khỏi hoài phí mất xuân quang.
Hà Nhân rủ rê hai ả đến chơi chỗ trọ của mình, chuyện trò đằm thắm. Chàng lả
lơi cợt ghẹo, hai ả thẹn thò nói rằng.
- Chúng em việc xuân chưa trải, nhụy thắm còn phong, chỉ e tình hoa run rẩy,
tơ liễu điên cuồng, oán lục thẹn hồng, làm giảm thú phong lưu đi mất.
Hà Nhân nói:
- Thì hãy thử thôi, tôi chẳng dám đem chuyện mây mưa làm "khó dễ" hai nàng.
Rồi tắt  đèn  đi nằm. Tựa ngọc kề vàng, gối vừa xô đã khoát sóng hoa đào nghiêng ngả. Hà Nhân giữa lúc gối chăn êm ấm, bảo hai nàng cùng làm thơ ngâm chơi. Nàng Liễu ngâm trước:
Xạ trầm lương hãn thấp la y,
Thúy đại khinh tần bát tự my.
Báo đạo đông phong khoan đả lục,
Tiêm yêu bãi loạn bất thăng suy.
Dịch:
Màu hôi dâm dấp áo là,
Mây xanh đôi nét tà tà như chau.
Gió xuân xin nhẹ nhàng nhau,
Thân non mềm chịu được đâu phũ phàng .
Nàng Đào cũng tục ngâm:  Thiên cao cấm ngữ lậu thanh trì,
Đăng ủng ngân giang xuất giáng duy.
Phân phó tài lang phan chiết khứ,
Tân hồng nhận thủ tiểu đào chi.
Dịch:
Cung sâu thưa điểm giọt rồng,
Ngọn đèn soi tỏ trướng hồng lung linh.
Tài lang mặc sức vin cành,
Đào non nhận lấy những nhành thắm tươi.
Hà Nhân vỗ tay cả cười mà rằng:
- Tình trạng trong chốn buồng xuân, tả đến như thế thì thật là diệu tuyệt, lời
hoa ý gấm tôi khó lòng theo kịp hai nàng.
Hà Nhân bèn lại tiếp tục ngâm:
Quyện uyển thư trai khách mộng dung,
Ngộ tùy vân vũ đáo Vu Phong.
Giao phi điệp lộng sâm si bạch,
Liên đế hoa khai thứ đệ hồng.
Tĩnh túc nhiệm giao oanh thướng há,
Phân lưu nhẫn cấm thủy tây đông.
Tuyệt liên quân thị phong lưu chủng,
Hứng đáo phong lưu tự bất đồng.
Dịch:
Quê khách buồng văn giấc lạnh lùng,
Mây mưa bỗng lạc tới Vu Phong(4).
Đua bay bướm giỡn so le trắng,
Liền cuống hoa phô rực rỡ hồng.
Một ổ thỏa thuê oanh ấm áp,
Đôi dòng san sẻ nước tây đông.
Hữu tình cùng giống phong lưu cả,
Mỗi vẻ nhưng riêng thú đượm nồng.
Từ đó về sau, hai nàng cứ sớm đi tối đến, ngày nào cũng giống ngày nào, Hà
Nhân cho là sự kỳ ngộ của đời mình, so với chuyện xưa, có thể sánh với Bùi Hàng và
vượt hơn Tăng Nhụ(5).
Một buổi tối mưa dầm gió bấc, nhưng hai nàng vẫn đúng hẹn đến, khẽ bảo Hà
Nhân rằng:
- Chúng em sợ lỗi hẹn nên phải cố đến, nhưng thân như cái én, có chịu nổi rét
mướt đâu.  Hà Nhân bèn kéo Liễu vào lòng mà ấp ủ, đùa bảo rằng:
- Vẻ kiều diễm của em Liễu thật là tột bậc, có thể xứng đáng với một câu thơ
cổ "Mỹ nhân nhan sắc đẹp như hoa".
Đào lặng lẽ cúi đầu, có dáng hổ thẹn, rồi từ đấy luôn trong mấy hôm không
đến.
Hà Nhân hỏi Liễu:
- Em Đào mấy hôm nay có được khỏe không?
Liễu nói:
- Chị ấy vẫn khỏe chứ có làm sao đâu. Chỉ vì hôm nọ chàng khen em đẹp mà
không nói gì đến chị ấy, nên chị ấy xấu hổ không dám đến nữa.
Nhân thể đưa bài thơ của Đào gửi cho Hà Nhân:
Tình hà cốt cách tuyết tinh thần,
Lộ nhị yên điều lưỡng dạng tân.
Khả hận Đông Hoàng tư trước ý,
Nhất chi tiều tụy nhất chi xuân.

Dịch:
Băng sương cốt cách, tuyết tinh thần,
Nhị mởn nhành mềm đã xứng cân.
Khá trách Đông Hoàng thiên vị lắm,
Một cành bỏ héo, một cành xuân.
Hà Nhân đọc xong buồn rầu lúc lâu, rồi làm thơ họa theo vần trên để đáp lại:
Tương tư nhất đoạn nhất lao thần,
Để sự tài thành biệt hận tân.
Bằng trượng phong di phiền ký ngữ,
Vị thùy tiều tụy? vị thùy xuân?

Dịch:
Tương tư nặng gánh khổ tâm thần,
Ân ái chưa hề lệch cán cân.
Dì gió, nhờ đem tin nhắn nhủ:
Hoa nào bỏ héo? Lá nào xuân?
Đào được thơ, từ đấy mới đi lại như trước. Gặp đêm Nguyên tiêu(6), người ở
kinh thành kéo nhau đi chơi vui rầm rập, hai nàng mời Sinh:
- Nhà chúng em chẳng xa xăm gì mà chàng chưa hề bước chân đến, thật là
đáng trách. Nay gặp lệnh tiết, chúng em muốn mời chàng quá bộ lại chơi, mong
đừng chê xa mà từ chối.
Nhân vui vẻ bằng lòng ngay.  Khi đến trại Tây, qua mấy lần rào, quanh một đoạn tường, đi ước mấy chục
trượng thì đến một cái ao sen; hết ao lại là khu vườn, cây cối xanh tươi, mùi hoa
thơm ngát, nhưng ở dưới bóng đêm lờ mờ, không nhận rõ được hoa gì, cây gì cả, chỉ
thấy mùi hương lúc lúc thoảng tới.
Hai nàng nhìn nhau nói:
- Nhà chúng ta chật chội túi múi, chi bằng bày tiệc vui ngay ở trong vườn.
Rồi họ trải chiếu giát trúc, đốt đèn nhựa thông, bóc bánh lá hòe, rót rượu hạt
hạnh, các món ăn trong tiệc đều là những món quý trọng cả. Kế đó thấy những mỹ
nhân tự xưng là họ Vi, họ Lý, họ Mai, họ Dương, đây chị họ Kim, kia cô họ Thạch lục
tục đến mừng và dự tiệc. Trời gần sáng, mọi người giải tán, hai nàng cũng đưa Nhân
ra đến ngoài tường. Hà Nhân về đến thư phòng thì mặt trời đàng Đông đã rạng.
Sau đó vài tháng, Hà Nhân tiếp được tin nhà gửi đến kinh đô, nói cha mẹ ở nhà
đã hỏi vợ cho, giục Nhân nên về mau để làm lễ cưới. Nhân bối rối quanh co, lòng rất
không nỡ, hai nàng đoán biết được tình ý, bảo Nhân rằng:
- Bọn chúng em thân bồ vóc liễu, không thể cáng đáng được việc tần tảo ở gia
đình. Vả ngôi chủ phụ trong nhà, tất phải là người trong nền nếp trâm anh như Tống
Tử, Tề Khương(7), chúng em đâu dám chòi mòi đến. Chỉ mong chàng sau buổi về
quê, tình cũ sẽ vấn vương không dứt, sớm dẹp lòng quyến luyến hương thổ để lại
tính kế tìm hoa, sẽ xem cây liễu Hàn Hoành(8), vẫn chờ đợi với những cành dài ngày
xưa, cây đào Thôi Hộ(9), vẫn chào đón những hoa cười năm ngoái. Xin chàng lưu ý,
đừng vì ấp yêu duyên mới mà lạt phai tình cũ, khiến chúng em thành những bông
hoa vô chủ ở Giang Nam.
Nói rồi cùng nâng chén tiễn biệt và mỗi người đọc một bài ca. Nàng Liễu ca
trước rằng:

Đế thành đông biên phiền thảo mộc,
Phá ốc sổ gian Khúc giang khúc.
Ngân tỳ thái lục sự sơ trang,
Vụ các vân song khổ u độc.
Việt tòng nhị bát tích phương dung,
Điệp sứ phong môi vị khẳng thông.
Tận nhật đối y hồng hạnh ổ,
Khuy xuân tu hướng thiếu niên tùng.
Hiệp thư hà xứ gia công tử,
Học bác tài xa quán kinh sử.
Thảo thảo tường đầu nhất kiến gian,
Lương duyên vị hứa tâm tiên hứa.
Tiện tương phàm hủy hưởng dương tài,
Phân phó đông hoàng hảo hảo khai.
Nhứ tạm nghênh phong hương lạc mạc,
ảnh sơ thí noãn lục bồi hồi.  Nùng hoa lộ trích đàn tâm thổ,
Tiêu đắc tòng tiền xuân hận khổ.
Ca sinh nhuyễn độ Tiểu Man yêu,
Chỉ phấn nế quân Tây Tử nhũ.
Hội lai khuất chỉ vị chu tinh,
Mãn mục sơn hà lữ mộng kinh.
Lệ lạc phần hương ngư đệ tín,
Hồn tiêu mai dịch mã am trình.
Trường đình hựu sấn xa thanh tảo,
Sử thiếp trường ưu lai tổ đạo.
Tây viên vũ ám khấp hoàng mai,
Nam phố ba hàn sầu lục thảo.
Mai hoàng thảo lục ám thương thần,
Thiếp tại quân quy ảnh tạm phân.
Trịnh trọng vị quân ca thử khúc,
Lâm kỳ ưng hữu đoạn trường nhân.

Dịch:
Để thành nọ mé bên đông,
Mấy gian nhà cũ giữa vùng trại hoang.
Phấn son ngày tháng điểm trang,
Quạnh hiu gác khói hiên sương lạnh lùng.
Vừa tuần đôi tám xuân dung,
Tin ong sứ điệp chưa thông nẻo nào.
Bên hoa hôm sớm tiêu dao,
Đường xuân thẹn chửa dám chào hỏi ai.
Nho sinh bỗng có một người,
Văn chương kinh sử tót vời làu thông.
Trong tường ngấp nghé xa trông,
Tuy duyên chưa buộc mà lòng đã trao.
Tình yêu chẳng dễ ngăn rào,
Đời hoa thôi đã gửi vào chúa xuân.
Cành xanh lá biếc thanh tân,
Múa may theo ngọn gió xuân dập dìu.
Lòng hoa khi giọt sương gieo,
Sầu xuân đã nhẹ nhàng tiêu, nhẹ nhàng.  Miệt mài trong cuộc truy hoan,
Tây Thi (10) ngực nở, Tiểu Man (11) lưng mềm.
Năm tròn chăn gối vừa êm,
Non sông giục khách trạnh niềm gia hương.
Tin nhà gửi đến đau thương,
Càng đau thương lúc buông cương dặm ngoài.
Bon bon xe ruổi trời mai,
Lòng em khô héo tiễn người đường xa.
Bến Nam cỏ áy bóng tà,
Vườn tây một rặng mai già khóc mưa.
Cỏ cây rầu rĩ tiêu sơ,
Chàng về thiếp luống ngẩn ngơ tâm hồn.
Vì chàng hát khúc nỉ non,
Biệt ly để nặng nỗi buồn cho ai.

Đào cũng ca rằng:

Thu tiêu mạt bích hề thu diệp thê đan,
Thiên hộ vạn hộ hề hàn châm thanh can.
Cô nhạn nam phi hề chính hồng độ quan,
Mộ yên thảm đạm hề tân sầu nhất ban.
Ngã công bất lưu hề ngã tâm bàn hoàn,
Cánh quyên cựu ái hề tạm kết tân hoan.
Hà phần thán cúc hề sở uyển tu lan,
Phiếm ngã quỳnh tràng hề tu ngã ngân bàn.
Biệt thời dung dị hề kiến thời lương nan,
Ô hô nhất ca hề uất đào trường than.
Hận bất du ty hề triền văn quy an,
Hận bất thường pha hề chướng đỗ hồi lan.
Hận bất hoàng oanh hề oán khách miên man,
Đốt ta thử biệt hề hà thời đương hoàn?
Hoa lưu đỗng khẩu hề thủy đáo nhân gian,
Nhân linh tiểu thiếp hề bão thử sinh oan.
Ô hô tái ca hề châu lệ hoàn lan.

Dịch: 
Trời thu nhuộm biếc chừ, lá thu chen hồng,
Đập vải tiếng vang chừ, mọi nhà tây đông.
Chim nhạn về nam chừ, chim hồng sang sông,
Khói chiều thảm đạm chừ, sầu mới mênh mông.
Tình lang chẳng ở chừ, lòng tơ trăm vòng,
Tạm cắt tình xưa chừ, về lập tân phòng.
Cúc Hà (12) ủ rũ chừ, lan Sở thẹn thùng,
Nâng chén rượu quỳnh chừ, đối bóng trăng trong.
Dễ khi ly biệt chừ, khó lúc trùng phùng,
Than ôi em hát một khúc chừ, nhớ thương khôn cùng.
Hận không sợi tơ chừ, buộc níu chinh an,
Hận không bờ bãi chừ, gọi khách miên man.
Ly biệt từ đây chừ, bao lại đoàn loan?
Hoa lưu cửa động chừ, nước xuống nhân gian,
Nỡ để thân em chừ, ôm mối hờn oan.
Than ôi em hát hai khúc chừ, lệ châu lan tràn.
Nghe hát xong, Hà Nhân rưng rưng đôi hàng nước mắt rồi cùng hai nàng từ
biệt.
Hà Nhân về đến nhà thì hôn kỳ đã do cha mẹ định sẵn. Nhân nói với cha mẹ
rằng:
- Sinh con trai muốn cho có vợ, sinh con gái muốn cho có chồng, đó vẫn là lòng
của cha mẹ mà cũng là phúc của gia đình. Song con nghĩ mình dòng dõi tấn thân,
mà sự học hành chưa thành danh gì cả. Nếu nay có vợ, e không khỏi vui bề chăn gối
mà lãng việc sách đèn. Chi bằng việc cưới xin hãy tạm hoãn, đợi khi con đường mây
nhẹ gót, thỏa nguyện bình sinh, bấy giờ hãy tìm đến tưởng cũng chưa muộn.
Cha mẹ không nỡ trái ý con, việc cưới bèn đình hoãn lại.
Ở nhà chưa bao lâu, Hà Nhân vì tưởng nhớ hai nàng mà lúc nào cũng ủ ê rầu rĩ,
bèn lại lên đường để tới kinh. Vừa đến trại Tây, đã thấy hai nàng đứng đón, tươi cười
hỏi:
- Lang quân vừa cưới vợ, sao không  ở nhà vui vầy duyên mới,  đã vội lên
đường?
Hà Nhân kể rõ nguyên do, hai nàng đều nức nở khen rằng:
- Lang quân thật là một người tình nghĩa, không lỗi lời ước hẹn tìm hoa.
Bèn vì Hà Nhân sắm lễ, để lại đến trường cũ theo học.
Nhân tuy mượn tiếng du học, nhưng bút nghiên chí nản, son phấn tình nồng.
Ngày nào mới buổi xuân dương, thoắt đã trời đông tiết lạnh. Một hôm Nhân ở ngoài
về, thấy hai nàng mắt đều đẫm lệ. Nhân giật mình hỏi, hai nàng đều sụt sùi giọt lệ
nói rằng:  - Chúng em không may đều mắc bệnh gió sương, khí xuân chưa về, mặt hoa
dễ héo, thuốc thang khó tìm, hương hồn một mảnh, chưa biết rồi sẽ trôi dạt đến nơi
nào.
Hà Nhân kinh ngạc:
- Anh cùng với hai em, duyên không mối lái nghĩa kết keo sơn. Cớ sao các em
vội nói đến chuyện lìa tan, khiến anh lo sợ như là con chim sợ cung vậy.
Nàng Liễu nói:
- Ham vui ân ái, ai ai chẳng lòng, nhưng số trời đã định kỳ về đến nơi, biết làm
sao được. Rồi đây cánh rã trong bùn, hương rơi mặt đất, ba xuân cảnh sắc, thú vui
biết sẽ thuộc về đâu.
Hà Nhân ngao ngán buồn rầu, không sao rứt được. Nàng Đào nói:
- Người sinh ở đời như cái hoa trên cây, tươi héo có kỳ, không thể nào gượng
được dù trong chốc lát. Chỉ xin chàng từ  đây bồi dưỡng thân thể, chăm chỉ bút
nghiên, ghép liễu (13) thành công, xem hoa (14) thỏa nguyện, thì chúng em dù vùi
thân trong chỗ ngòi lạch cũng chẳng chút phàn nàn.
Hà Nhân nói:
- Vậy thế cái kỳ tan tác còn chừng bao lâu nữa?
- Chỉ nội đêm nay thôi. Hễ lúc nào có trận gió dông nổi lên là lúc chúng em
thác hóa. Chàng nếu nghĩ tình ân ái cũ, quá bộ đến trại Tây thăm viếng chúng em sẽ
được ngậm cười mà về chốn suối vàng.
Nhân khóc mà rằng:
- Sự thể cấp bách như vậy, cũng chẳng biết làm sao được nữa, song anh ở đất
khách quê người, lưng không, túi rỗng, biết lấy gì mà đắp điếm cho hai em.
Hai nàng nói:
- Thân mệnh của chúng em lả lướt như tơ, mong manh tựa lá. Sau khi thác
hóa, đã có mây làm tàn, có lốc (gió) làm xe, sương trắng làm ngọc đeo, cỏ xanh làm
nệm rải, than khóc đã oanh già thỏ thẻ, viếng thăm đã bướm héo vật vờ, chôn vùi có
lớp rêu phong, đưa tiễn có dòng nước chảy, khói tan gió bốc không phiền phải đắp
điếm gì cả.
Đoạn rồi mỗi người để đôi hài cườm lại tặng Nhân và nói:
- Mất người còn chút của tin, gọi có vật này để tặng nhau trong lúc sinh ly tử
biệt, sau này khi chàng ướm thử, sẽ như là chúng em còn ấp yêu ở dưới chân chàng.
- Tối hôm ấy, quả nhiên hai nàng không đến. Khoảng gần nửa đêm, trời bỗng
nổi cơn mưa gió dữ dội. Nhân đứng tựa lan can, buồn rầu ngơ ngẩn như kẻ mất hồn.
Nhân sang chơi nhà ông cụ già bên láng giềng, kể lể về câu chuyện ấy. Ông già nói:
- Ôi! Cậu nói rõ chuyện chiêm bao chắc? Cái dinh cơ ấy từ khi quan Thái sư mất
đi, trải hơn 20 năm nay,  đã thành một nơi hoang quạnh. Mấy gian  đền mốc một
người quét dọn cũng không có, làm gì có nhiều cô gái họ nọ, họ kia như cậu nói.
Chẳng qua đó là những hạng gái lẳng lơ dâm đãng nếu không thì là những u hồn trệ
phách, hiện lên thành yêu quỷ đó thôi.
Sáng hôm sau, ông già cùng Nhân đến trại Tây. Chỉ thấy nếp nhà quạnh hiu,
vài ba cây đào, liễu xơ xác tơi bời, lá trút đầy vườn, tơ vương khắp giậu.
Ông già trỏ bảo Nhân rằng:  - Đây chả phải là nơi cậu đến chơi ư? Chị ả họ Kim, thì đây hoa Kim tiền. Cô
nàng họ Thạch, thì đây cây Thạch lựu. Đến như họ Lý, họ Vi, họ Dương, họ Mai, cũng
đều nhân tên hoa mà làm họ cả. Không ngờ mấy cây hoa ấy lại biến huyễn như thế
được.
Hà Nhân bấy giờ mới giật mình tỉnh ngộ, tự nghĩ mình bấy lâu mê mải, chỉ là
đánh bạn với hồn hoa. Về đến nhà. Nhân lấy những chiếc hài tặng ra xem, vừa cầm
trên tay, mấy chiếc hài đã thành ra những cánh hoa, bay vèo lên trên không mất.
Sáng hôm sau, Nhân đem bán một cái áo, lấy tiền làm mâm cỗ bày cúng hai
nàng; lại làm một bài văn tế như sau:
Duy nhị nhân,
Băng ngưng kỳ cốt;
Lộ trích nghiên phương.
Nhã thượng thiên nhiên chi chất,
Sỉ vi thời thế chi trang.
Quân thị danh chu đệ nhất;
Tin hồ tuyệt đại vô song.
Lãng uyển anh hoa, yếm khan phú quý,
Hồ song đăng hỏa, hiếu bạn thanh quang.
Bồn trưởng song đầu mạt ly,
Trì thê giao cảnh uyên ương.
Duy nguyện cửu triêm ư ân hải,
Như hà cự phản ư tiên hương.
Nhiễm nhiễm nùng hoa đốn cải,
Du du biệt hận không tương.
Phong thừa ngã, ngữ thừa phong, phiến thời liêu loạn,
Sắc thị không, không thị sắc, bán dạ thê lương.
Thảm đạm hồng hy viện lạc,
Đê mê lục ám trì đường.
Thâm thâm hề ế ngọc,
Uất uất hề mai hương.
Thân thế trục thu phong chi khách,
Phồn hoa kinh xuân mộng chi trường.
Y nhất chiều ly biệt,
Vạn cổ bi thương.
Hồn dục chiêu hề bất phản,
Tung nghĩ phỏng hề vô phương.
Túng hữu linh hề vị dẫn,
Thượng lai hưởng hề dư tràng.  Ô hô ai tai!

Dịch:
Hỡi ơi hai nàng,
Sương đọng ấy màu,
Băng trong làm cốt.
Ưa vẻ thiên nhiên,
Ghét bề điểm chuốt.
Sắc nọ hẳn không hai,
Tài này đành có một.
Anh hoa vườn Lãng (15), dửng dưng những cảnh huy hoàng,
Đèn lửa song hồ, thân cận với người nghiên bút.
Ao uyên ương chim cặp vẫy vùng,
Chậu mạt lỵ hoa (16) đôi tươi tốt.
Những mong bể ái giong thuyền,
Sao bỗng làng tiên trở gót.
Cuộc biến thiên xui hoa nọ tơi bời,
Hờn ly biệt để lòng này kèo cuột.
Gió cưỡi mình, mình cưỡi gió, một khắc mê ly,
Không là sắc, sắc là không, nửa đêm vi vút.
Trên ao vẻ biếc đê mê,
Trước viện màu hồng thưa thớt.
Ngọc lấp thảm thương,
Hương vùi não nuột.
Thân theo bóng nhạn, phơ phất lưng trời,
Mộng tỉnh phồn hoa, bàng hoàng một phút.
Ôi! Một sớm chia phôi, nghìn thu đau xót.
Hồn lạc không về,
Người đi mất hút.
Linh thiêng ai hỡi có hay,
Hiến hưởng rượu này mới rót.
Than ôi thương thay!!! Thượng hưởng!

Đêm hôm ấy chàng chiêm bao thấy hai nàng đến tạ rằng:
- Đội ơn lang quân làm bài văn tế viếng, khiến cho thanh giá chúng em càng
bội tăng lên. Cảm vì tình ấy nên chúng em về đây bái tạ.  Hà Nhân muốn lưu lại, nhưng hai nàng vụt đã bay lên trên không đi mất.
Lời bình:
Than ôi, thanh lòng không bằng ít dục, dục nếu yên lặng thì lòng rỗng mà điều thiện sẽ vào, khí bằng phẳng mà cái lý sẽ thắng, tà quỷ còn đến quấy nhiễu làm sao được. Chàng họ Hà lòng trẻ có nhiều vật dục, cho nên loài kia mới thừa cơ quyến rũ. Nếu không thì những giống nguyệt quái hoa yêu, mê hoặc sao được mà chẳng phải thu hình nép bóng ở trước Lương công là một bậc chính nhân (17). Kẻ sĩ gánh cặp đến học ở Trường An, tưởng nên chăm chỉ về học nghiệp, tuy không dám mong đến được chỗ vô dục nhưng giá gắng tiến được đến chỗ quả dục thì tốt lắm!

Chú thích
(1) Thiên Trường:  đời Trần là phủ, gồm các huyện Mỹ Lộc, Giao Thủy, Tây
Chân, Thuận Vi, khoảng thời Lê thuộc trấn Sơn Nam, nay thuộc tỉnh Nam Định và
một phần nhỏ thuộc tỉnh Thái Bình.
(2) Thiệu Bình: niên hiệu của vua Lê Thái Tông từ 1434 đến 1439.
(3)ức Trai: tên hiệu của Nguyễn Trãi (1380-1442), quê ở xã Nhi Khê, huyện
Thượng Phúc, nay là huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, đỗ đệ nhị giáp khoa thi Thái học
sinh năm Thánh Nguyên thứ 1 (1400) đời nhà Hồ. Ông là một đại văn hào và là một
anh hùng dân tộc Việt Nam.
(4) Vu Phong: non Vu, theo bài phú Cao đường của Tống Ngọc, là nơi Sở Hoài
Vương chăn gối với thần nữ. Xem thêm chú thích (11) Chuyện người nghĩa phụ 
Khoái Châu.
(5) Bùi Hàng đời Đường đi thi trượt trở về đến trạm Lam Kiều khát nước, vào
một nhà gần đó xin uống. Trong nhà có bà cụ già gọi một cô gái tên là Vân Anh nhan
sắc tuyệt đẹp. Bùi Hàng xin lấy làm vợ. Bà già đòi phải đem bộ chày cối ngọc để giã
một viên thuốc tiên thì sẽ gả cho. Sau Hàng quả đi kiếm được chày cối ngọc đem đến
rồi được lấy cô gái ấy. Té ra người con gái là một nàng tiên. Sau vợ chồng đưa nhau
vào ở trong động Ngọc Phong đều thành tiên cả (Thượng hữu lục). Ngưu Tăng Nhụ
cũng người đời Đường, đi thi trượt về, đến dưới núi Minh Cảo, trời tối lạc đường. Một
lúc có bóng trăng lên, thoáng thấy một mùi hương lạ. Xa trông một chỗ có bóng đen,
tìm đến thấy một tòa cung đền rực rỡ, thì ra là miếu của bà Thái hậu họ Bạc đời Hán.
Bà Bạc Hậu hiện lên mời đón, rồi lại họp mời cả các bạn như Thích Phu Nhân. Chiêu
Quân, Thái Chân, Phan Phi, v.v để cùng làm thơ, Tăng Nhụ cũng là một bài (Thượng
hữu lục).
(6) Nguyên tiêu: đêm rằm tháng Giêng.
(7) Tống Tử, Tề Khương: lấy ý từ hai câu Kinh thi (Trần phong): Khởi kỳ, thú
thê, tất Tề chi Khương (Nếu lấy vợ, ắt là nàng họ Khương nước Tề); Khởi kỳ thú thê,
Tất Tống chi Tử (Nếu lấy vợ, ắt là nàng họ Tử nước Tống). Họ Khương và họ Tử là hai
họ dòng dõi và có con gái đẹp.
(8) Hàn Hoành: xem chú thích (4) Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu
(9) Thôi Hộ đời Đường, ngày thanh minh đi chơi, khát nước vào một nhà xin
uống, thấy một người con gái đem chén nước ra cho rồi đứng dựa cây đào nhìn mình
chăm chú. Thôi đi rồi, bẵng một năm, năm sau cũng ngày thanh minh lại đến nhà ấy
thì thấy  đóng cửa. Chàng  đề một bài thơ như sau: "Khứ niên kim nhật thử môn
trung, Nhân diện đào hoa tương ánh hồng. Nhân diện bất chi hà xứ khứ, Đào hoa y
cựu tiếu đông phong". Nghĩa là: Bữa nay năm ngoái chốn qua chơi, Mặt ngọc hoa đào óng ánh tươi. Mặt ngọc ngày nay đâu vắng tá. Hoa đào năm ngoái vẫn còn cười.
Người con gái xem thơ, nhớ thương rồi ốm chết. Chợt Thôi Hộ đến, nghe tiếng khóc
chạy vào ôm thây mà khóc. Người con gái bỗng hồi tỉnh rồi sống lại. Ông bố bèn đem
cô con gái gả cho Thôi Hộ (Tình sử).
(10) Nàng Tây Thi là vợ vua Phù Sai nước Ngô người tuyệt đẹp.
(11) Nàng Tiểu Man, vợ lẽ của nhà thi sĩ Bạch Cư Dị, múa rất khéo.
(12) Cúc Hà: Lấy ý từ bài Thu phong từ của Hán Vũ Đế làm khi đi tế ở Hà Phần:
Lan hữu tú hề cúc hữu phương: Hoài giai nhân hề bất năng vương (Lan có hoa chừ
cúc tỏa hương, Nhớ người đẹp chừ lòng vấn vương). Lan Sở: hoa lan nước Sở, một
loài hoa cao quý mà Khuất Nguyên luôn nhắc tới trong tác phẩm Sở từ của ông.
(13) Tôn Kính đời Hán, người Tín Đô, khi học ở nhà Thái Học, vì không có tiền
sách vở nên đã ghép lá liễu làm giấy chép bài mà học. Ban đầu ngồi học, sợ ngủ
quên nên đã túm tóc buộc lên xà nhà, hễ ngủ gật sẽ bị thức dậy.
(14) Xem hoa: Theo lệ, sau khi thi Hội, những người thi đỗ được cho cưỡi ngựa
xem hoa trong vườn thượng uyển. Nhưng Liễu và Hoa ở đây còn liên hệ đến tên hai
nàng.
(15) Vườn lãng: Chỉ cõi tiên, cũng như La Phù, Bồng Đảo đều là nơi tiên ở.
(16) Mạt lỵ hoa: Tức hoa nhài.
(17) Đời Đường, Vũ Tam Tư, còn có tên là Thừa Tự, có người nàng hầu là Tố Nga, nhan sắc đẹp lắm. Địch Lương Công đến thăm, Tam Tư gọi ra, nhưng nàng lẩn mất, chỉ thấy ở góc nhà có mùi hương, đến lắng nghe thì chính là Tố Nga. Nàng nói: "Thiếp là con yêu hoa nguyệt, Thượng đế cho xuống hầu hạ ông. Lương Công là bậc
chính nhân ở đời, thiếp không dám giáp mặt".

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét