Thứ Ba, 4 tháng 1, 2011

Từ "lộn" trong Truyện Kiều

Từ “lộn” trong câu thơ Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng
                                                                          (Truyện Kiều)
Trong mục VĂN HỌC VÀ HỌC VĂN (Tài hoa trẻ số 555), tác giả Lê Xuân Lít đã đưa ra một cách hiểu khác về nghĩa từ “lộn” trong câu Kiều Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng. Sau khi nêu cách giải nghĩa từ này của nhà Hán học Đào Duy Anh, anh giải nghĩa của từ “lộn”: “Nhưng chúng tôi lại ngờ cách giải thích của cụ Đào. Có phải là về nhà mình? Từ lộn tiếng Việt có hai nghĩa: một nghĩa như cụ Đào giải thích và một nghĩa khác là nhầm lẫn, lộn xộn. Lộn nhà, lộn tiền, lộn tài liệu, lộn người…”. Tiếp đó, anh lý giải nghĩa của từ “lộn” trong câu Kiều: “Theo hướng giải thích thứ hai, nhà nghiên cứu Lê Văn Hòe viết: Lộn chồng là bỏ chồng này lấy chồng khác, thay đổi chồng luôn luôn. Về cơ bản chúng tôi đồng ý với ông Văn Hòe nhưng hình như có chỗ chưa kỹ lắm. Chẳng cần phải đổi chồng luôn luôn mới là lộn chồng. Dẫu một lần, cũng lộn rồi. Hơn nữa, bỏ chồng này lấy chồng khác chưa hẳn đã lộn. Lộn là khi bà A có chồng hẳn hoi, bà A bèn lấy ông B, chồng của bà B. Ở đây, chắc trong thâm tâm của bà Hoạn, bà cho rằng Thúc Sinh là chồng của Hoạn Thư. Thúy Kiều lấy Thúc là lộn”.
Cách giải thích từ “lộn” của lê Xuân Lít hoàn toàn đúng, thậm chí rất sâu sắc nếu đặt trong hoàn cảnh ngày nay, nhưng đặt từ này trong thời đại Nguyễn Du viết Truyện Kiều thì e hiện đại quá. Truyện Kiều được Nguyễn Du viết vào đầu thế kỷ XIX, sự kiện xẩy ra vào “Năm Gia Tĩnh triều Minh”- thời của ý thức hệ phong kiến, con người sống trong vòng cương tỏa của Tam cương ngũ thường. Người phụ nữ chẳng có địa vị gì trong gia đình và ngoài xã hội. Họ chỉ thực hiện chức năng sinh con đẻ cái và phục dịch trong gia đình nhà chồng. Người phụ nữ có chồng coi như gông đã đeo vào cổ (gái có chồng như gông đeo cổ). Sống chết phải phụ thuộc vào nhà chồng. Cho nên, một khi người phụ nữ bỏ chồng về nhà cha mẹ đẻ hoặc bỏ chồng này lấy chồng khác thường bị xã hội và gia đình khinh rẻ, miệt thị, coi đó là hạng đàn bà hư thân mất nết. Những người phụ nữ nổi loạn đó được người xưa xếp ngang hàng với bọn nô tỳ trốn chủ nhà hay ví như loại “mèo mả gà đồng”-những loài vật hoang, vô chủ.
Mặt khác, muốn hiểu đúng nghĩa từ này, chúng ta phải đặt từ “lộn” trong mạch nói của Hoạn bà: “Con này chẳng phải thiện nhân/ Chẳng phường trốn chúa, thì quân lộn chồng/ Ra tuồng mèo mả gà đồng/ Ra tuồng lúng tứng chẳng xong bề nào/ Đã đem mình bán cửa tao/ Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này” sau khi thấy Kiều chẳng sợ uy danh bà ta mà vẫn điềm nhiên trả lời những “ngọn hỏi ngành tra” mà bà chất vấn. Như thế, Hoạn bà dùng từ “lộn” để chỉ Kiều là hạng đàn bà hư hỏng, mất nết, bất lương chứ không phải là người lương thiện.
Hiểu nghĩa từ “lộn” như trên, thiết nghĩ không cần phải giải thích một cách cặn kẽ, ít nhiều mang tính suy luận như của Lê Xuân Lít: “Thật ra bà hoàn toàn điêu toa và vô lý “Miệng nhà quan có gang có thép”. Thúy Kiều lấy Thúc Sinh đã được cha Thúc Sinh đồng ý…Hoạn bà làm như vậy là coi thường sui gia, hơn thế là phạm pháp”. Do đó, cách giải nghĩa từ “lộn” của học giả Đào Duy Anh (Từ điển Truyện Kiều, Nxb Phụ nữ, 2007, tr. 212) và của các ông Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính (Nguyễn Du-Tác phẩm và lịch sử văn bản, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 2000, tr. 372) hoàn toàn chính xác và phù hợp.
                                                                 Nguyễn Công Thanh
                                                           (Tạp chí Tài hoa trẻ số 560)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét